Hà Nội trước cuộc chiến 60 ngày đêm
Ngày 4 tháng 9 năm 1945, Thống chế Charles De Gaulle, lãnh đạo tối cao của Pháp lúc bấy giờ, đã gửi một thông điệp đến Đô đốc d’Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông Dương: “Chúng ta còn một phần tài nguyên quý giá cần chiếm lại, một miếng bánh lớn đang chờ đợi. Phần đó, dành cho ngài! Hãy tiến lên và giành lấy nó.” Một phần của "miếng bánh" ấy chính là Việt Nam.
Hội nghị Potsdam tháng 7 năm 1945 đã thông qua quyết định đưa quân Đồng minh vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật Bản. Theo đó, quân Tưởng Giới Thạch tiến vào miền Bắc, trong khi quân Anh và Pháp kiểm soát miền Nam, gây áp lực lớn lên chính quyền cách mạng non trẻ. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, với sự hỗ trợ của quân Anh, thực dân Pháp tiến hành chiếm đóng Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai.
Tại miền Bắc, lực lượng Quốc dân Đảng cấu kết với các thế lực phản động, gây rối nhằm làm suy yếu chính quyền cách mạng. Để đối phó, Chính phủ Việt Nam buộc phải nhượng bộ quân Tưởng, đồng thời phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, đưa hàng vạn cán bộ, chiến sĩ vào miền Nam để phá vỡ âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của đối phương. Trước diễn biến phức tạp, Pháp và Tưởng đạt được thỏa thuận vào cuối tháng 2 năm 1946, theo đó quân Pháp thay thế quân Tưởng ở miền Bắc để đổi lấy một số lợi ích. Nhân cơ hội này, nhằm buộc quân Tưởng rút lui, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ bộ Pháp - Việt ngày 6 tháng 3 năm 1946, cho phép 15.000 quân Pháp tiến ra miền Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Anh, Mỹ, Trung Quốc tại lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946.
Cùng thời điểm, quân dân ta gấp rút củng cố lực lượng. Ngày 22 tháng 5 năm 1946, Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Gần một triệu dân quân tự vệ sẵn sàng tham gia kháng chiến. Đến tháng 10 năm 1946, đất nước được chia thành 12 chiến khu, trong đó Hà Nội giữ vai trò trọng yếu với vị thế là chiến khu 11.
Để bảo vệ tương lai dân tộc, trận chiến giữ chân quân Pháp tại Hà Nội đóng vai trò quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Hà Nội phải là tấm gương anh dũng, kìm chân địch càng lâu, cả nước càng có thời gian chuẩn bị lực lượng. Cuộc chiến đấu tại Thủ đô không chỉ bảo vệ Hà Nội, mà còn bảo vệ tương lai của cả dân tộc." Cuối năm 1946, quân Pháp, sau khi được tăng viện, đã không ngừng thực hiện các hành động khiêu khích nhằm mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra miền Bắc. Chúng tấn công các cơ quan nhà nước, tàn sát dân thường và gửi tối hậu thư yêu cầu ta giải tán lực lượng tự vệ, nộp vũ khí và từ bỏ quyền kiểm soát Thủ đô.
Không thể nhượng bộ trước những yêu cầu đó, vào ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại Vạn Phúc, Hà Đông đã quyết định phát động toàn quốc kháng chiến, với trận chiến mở màn tại Hà Nội. Đây là cuộc đối đầu không cân sức: quân Pháp có 6.500 lính chính quy, trang bị đầy đủ với hàng ngàn súng, đại bác, xe tăng, máy bay và sự hỗ trợ của 7.000 kiều dân Pháp cùng hàng nghìn lính lê dương.
Trong khi đó, lực lượng Việt Minh tại Hà Nội chỉ có 2.500 Vệ quốc quân và 8.000 dân quân tự vệ, được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân. Tuy nhiên, trang bị của ta hết sức thiếu thốn, chỉ có súng trường, lựu đạn và vũ khí thô sơ như giáo mác, cung tên. Vệ quốc quân chỉ có một khẩu bazooka và một số ít bom ba càng, cùng với vài khẩu pháo cũ kỹ. Sự chênh lệch lực lượng khiến nhiều chính trị gia Pháp coi thường Việt Nam. Tại Hội nghị Việt - Pháp ở Fontainebleau, phái đoàn Pháp đã ngạo mạn tuyên bố rằng:
Trong trường hợp đàm phán thất bại, quân đội chúng tôi sẽ đè bẹp các du kích quân của các ngài trong vài tuần.
Tuy nhiên, tất cả những lời đó không thể lay chuyển được ý chí đấu tranh vì nền độc lập của dân tộc ta.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 19 tháng 12 năm 1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ đã phá máy, cắt đứt toàn bộ nguồn điện của Thủ đô. Đúng 20 giờ 3 phút, đại bác từ pháo đài Láng khai hỏa, phát lệnh tổng công kích, chính thức mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc và trận đánh tại Hà Nội. Cùng lúc đó, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ hang Trầm:
Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.
Về phía quân Pháp, mặc dù đã nhận được tin tình báo trước, nhưng chúng vẫn lập tức phản kích quyết liệt. Tuy nhiên, ở mọi góc phố Hà Nội, quân dân Việt Nam đều kiên cường kháng cự. Trước sức kháng cự mạnh mẽ đó, Jean Étienne Valluy, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, định sử dụng không quân tấn công dập tắt các điểm kháng cự, nhưng tướng Morlière lại từ chối vì lo ngại thiệt hại lớn. Thay vào đó, ông chọn chiến thuật chiếm từng khu phố một. Ban ngày, quân Pháp tổ chức các cuộc càn quét dữ dội, nhưng khi đêm xuống, Vệ quốc quân lại tiến hành phản công quyết liệt.
Một trong những trận đánh đầu tiên, không thể không nhắc tới, là trận chiến tại Bắc Bộ Phủ – nay là Nhà khách Chính phủ, biểu tượng của sự kiên cường và tinh thần bất khuất của quân dân ta.
Bắc Bộ Phủ, chợ Đồng Xuân và cuộc rút lui chiến lược
Ngay trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, quân Pháp mở cuộc tấn công dữ dội vào Bắc Bộ Phủ – nơi đặt trụ sở của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhằm giành quyền kiểm soát khu vực này, địch huy động một lực lượng hùng hậu gồm 300 lính lê dương, 8 xe tăng, 10 xe thiết giáp, 2 khẩu sơn pháo 75mm cùng nhiều súng cối.
Đối mặt với kẻ thù vượt trội về trang bị, lực lượng phòng thủ chỉ gồm Đại đội 1, Tiểu đoàn 101 Vệ quốc đoàn, dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Mộng Hùng và chính trị viên Lê Gia Đỉnh. Với vũ khí thô sơ như ba khẩu trung liên, các tổ đánh bom ba càng, cùng mìn, bom tự chế và chai cháy, quân ta kiên cường cầm cự, tận dụng hệ thống giao thông hào, ụ chiến đấu và các tầng gác để ngăn chặn đợt tiến công của địch. Giao tranh ác liệt diễn ra tại nhiều khu vực trọng điểm như khách sạn Gà Trống Vàng (nay là khách sạn Hoà Bình) và phố Tràng Tiền, nơi quân Pháp chịu tổn thất nặng nề. Bất chấp việc tăng cường thêm xe tăng và hỏa lực yểm trợ, ba đợt tấn công liên tiếp của địch đều bị đẩy lùi.
Không chấp nhận thất bại, quân Pháp điều chỉnh chiến thuật, chia quân tấn công từ hai hướng: một mũi đột kích qua cổng sau Bắc Bộ Phủ từ vườn hoa Chí Linh, một mũi khác đánh vào trụ sở Bộ Lao động và Bộ Nội vụ. Mặc dù có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ xe tăng và pháo binh, quân địch vẫn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của ta và không thể phá vỡ phòng tuyến tại Bắc Bộ Phủ. Đến chiều ngày 20 tháng 12, quân Pháp tiếp tục mở đợt tấn công lớn hơn với lực lượng mạnh mẽ hơn, trong khi đạn dược của chiến sĩ ta gần cạn kiệt và thương vong ngày càng tăng. Tuy nhiên, các chiến sĩ vẫn kiên cường chiến đấu, rút về tuyến hai, giữ vững hầm ngầm nhà Bưu điện và kích nổ bom chôn sẵn trên đường tiến của kẻ thù.
Khi địch xông vào Bắc Bộ Phủ, chính trị viên Lê Gia Đỉnh ra lệnh cho đồng đội rút lui để bảo toàn lực lượng, còn bản thân anh ôm bom lao vào giữa đội hình quân Pháp. Dù bom không nổ, nhưng sự hy sinh anh dũng của Lê Gia Đỉnh đã khiến quân Pháp khiếp sợ và phải rút lui trong hoảng loạn. Cuối cùng, sau một ngày đêm chiến đấu kiên cường và quả cảm, 45 chiến sĩ Đại đội 1 đã hy sinh. Mặc dù quân Pháp chiếm được Bắc Bộ Phủ, nhưng cái giá mà chúng phải trả là vô cùng đắt, với gần 150 lính lê dương thiệt mạng và 4 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy.
Song song với trận đánh này, hàng loạt trận giao tranh ác liệt khác diễn ra khắp các phố phường Hà Nội. Quân ta đã làm phá sản hoàn toàn kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của quân Pháp, nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhân dân Thủ Đô, những người đã góp sức không chỉ trong việc cứu chữa thương binh mà còn trong việc cung cấp lương thực, đạn dược cho chiến trường. Tình quân dân càng thể hiện rõ rệt khi người dân Hà Nội giúp đỡ bộ đội trong dịp Tết Nguyên đán Đinh Hợi, gửi tặng bánh chưng, gạo nếp, bánh mứt và cành đào, thể hiện tình yêu nước và tinh thần đồng lòng với quân đội.
Với sự hỗ trợ của nhân dân, quân ta tiếp tục đánh bật các đợt tấn công của quân Pháp, mở đường cho những chiến thắng quan trọng sau này. Điển hình là trận chiến ngày 6 tháng 1 năm 1947, khi Đại đội 2 và Đại đội 4 thuộc Tiểu đoàn 56, phối hợp cùng lực lượng tự vệ, chặn đứng cuộc tiến công quy mô lớn của địch từ hai hướng Giảng Võ và Ô Chợ Dừa.
Bước sang những ngày đầu năm 1947, quân ta rơi vào tình trạng khan hiếm đạn dược, nhưng với tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", các chiến sĩ vẫn kiên cường bám trụ, đẩy lùi từng đợt tấn công. Một trong những trận đánh tiêu biểu trong giai đoạn này là cuộc chiến tại chợ Đồng Xuân, diễn ra từ ngày 11 đến 13 tháng 2 năm 1947.
Chiến sỹ quyết tử Trung đoàn Thủ đô đặt mìn tại chợ Đồng Xuân trước khi rút ra khỏi nội thành Hà Nội tháng 2 năm 1947.
Quân Pháp huy động lực lượng lớn tấn công khu vực chợ Đồng Xuân và các tuyến phố lân cận như Hàng Cót, Hàng Lược, Hàng Đường, Hàng Bạc, Mã Mây, với ý đồ tiêu diệt quân phòng thủ và giành quyền kiểm soát khu vực. Đối mặt với kẻ thù vượt trội về trang bị và quân số, Tiểu đoàn 101 Đồng Xuân thuộc Trung đoàn Thủ Đô, dù chỉ còn 130 chiến sĩ sau hơn 50 ngày chiến đấu gian khổ, vẫn kiên cường trụ vững, quyết không để địch chiếm lĩnh trận địa.
Đến sáng ngày 14 tháng 2, quân Pháp sử dụng hỏa lực mạnh mẽ với xe tăng, pháo binh và bộ binh, chia thành bốn hướng tấn công vào khu vực chợ. Sau hơn 2 giờ pháo kích dữ dội, quân Pháp bắt đầu tiến vào, sử dụng đại bác, súng cối và xe tăng để mở đường cho bộ binh. Tuy nhiên, mặc dù bị tổn thất nặng nề, các chiến sĩ ta vẫn kiên cường phản công và đẩy lùi quân địch mỗi khi chúng tiến vào.
Đến chiều cùng ngày, quân Pháp chỉ chiếm được một phần khu chợ và tiến vào các ngã tư, nhưng sau một ngày chiến đấu mệt mỏi, quân Pháp bắt đầu suy yếu. Nhận thấy cơ hội phản công, Tiểu đoàn 101 đã quyết định hành động bất ngờ vào đêm hôm đó. Lợi dụng đêm tối và sự quen thuộc với địa hình, các chiến sĩ ta đồng loạt tấn công, nổ súng và quẳng lựu đạn vào các vị trí quân Pháp đồn trú. Sau chỉ 2 giờ giao tranh, quân Pháp bị đẩy lùi, 100 lính Pháp và 3 xe bọc thép bị tiêu diệt, giúp Tiểu đoàn 101 giành lại quyền kiểm soát khu vực chợ Đồng Xuân.
Tuy nhiên, quân ta cũng phải chịu tổn thất nặng nề với 15 chiến sĩ hy sinh và 19 người bị thương. Dù vậy, chiến thắng này đã giúp giữ vững trận địa, tạo điều kiện cho cuộc rút lui chiến lược vào đêm 17 tháng 2 năm 1947.
Sau hai tháng chiến đấu kiên cường, quân ta dần rơi vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng về đạn dược và lương thực, buộc phải đưa ra quyết định chiến lược để bảo toàn lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Đêm 17 tháng 2 năm 1947, Trung đoàn Thủ Đô triển khai kế hoạch triệt thoái khỏi Hà Nội. Tiểu đoàn 101 Đồng Xuân nhận nhiệm vụ tiên phong, lặng lẽ hành quân qua gầm cầu Long Biên, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nếu gặp địch phục kích.
Dưới màn đêm che chở, quân ta rút lui trong im lặng, tránh được sự phát hiện của quân Pháp. Đến sáng 18 tháng 2, dù kẻ địch phát hiện và truy đuổi, nhưng đã quá muộn – bộ đội ta đã an toàn vượt qua sông Hồng, tiến về làng Thượng Hội, huyện Đan Phượng.
Trong thời khắc cam go ấy, Đội tự vệ Hồng Hà, gồm những người dân lao động trên bãi sông Hồng, đã dũng cảm chiến đấu, đánh lạc hướng quân địch để bảo vệ đường rút lui cho bộ đội. Họ đã hy sinh quên mình, cầm chân quân Pháp giữa bãi sông, tạo điều kiện để đồng đội thoát khỏi vòng vây.
Tức giận vì bị qua mặt, quân Pháp trút cơn thịnh nộ lên vùng đất này, đốt cháy 30 ngôi nhà, sát hại 27 thanh niên và phá hủy 40 con thuyền của dân làng Tứ Tổng. Thế nhưng, sự tàn bạo của kẻ thù không thể dập tắt tinh thần quật cường của nhân dân. Hằng năm, vào ngày 29 tháng 1 âm lịch, người dân nơi đây vẫn tổ chức giỗ trận, tưởng nhớ những người con đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ Thủ đô, bảo vệ Tổ quốc.
Hào khí mùa đông 1946: Lòng yêu nước và ý chí kiên cường
Ban đầu, quân ta chỉ được dự đoán có thể cầm cự khoảng một tháng trước sức mạnh áp đảo của quân Pháp. Thế nhưng, bằng ý chí sắt đá và tinh thần chiến đấu quật cường, các chiến sĩ Vệ quốc quân đã làm nên điều phi thường. Không chỉ giữ vững trận địa, họ còn khiến kẻ địch sa lầy, kéo dài cuộc chiến gấp đôi thời gian dự tính, tạo nên một thắng lợi vang dội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định, chính sự kiên trung của quân dân ta đã làm nên chiến thắng có ý nghĩa chiến lược to lớn.
Nhân dân Hà Nội xây dựng chiến lũy tại phố Mai Hắc Đế,12-1946.
Ngày hôm nay, khi đất nước thanh bình, mỗi mùa xuân về là một dịp để nhớ về những hy sinh to lớn của cha ông. Hai tháng chiến đấu khốc liệt trong mùa đông năm 1946 không chỉ giúp bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, Mặt trận, mà còn tạo điều kiện để hàng chục vạn đồng bào Thủ đô rút lui an toàn, củng cố lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Chiến thắng này không chỉ mang ý nghĩa quân sự, mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, của tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" đã khắc sâu trong tâm thức mỗi người Việt Nam. Đây là một dấu son chói lọi trong lịch sử dân tộc, minh chứng cho sức mạnh của ý chí và sự đoàn kết, làm nên bản hùng ca bất diệt trong cuộc đấu tranh giành độc lập.